Theo lãnh đạo Hiệp hội chè Việt Nam, cần tuyên truyền để người trồng chè Thái Nguyên và cả nước Hạn chế sử dụng thuốc BVTV trên cây chè, tránh nguy cơ tật bệnh.
1. Hạn chế sử dụng thuốc BVTV trên cây chè để bảo đảm sức khỏe giống nòi
Ngành chè Việt Nam trong đó có cộng đồng doanh nghiệp chè Thái Nguyên thời gian qua đau đầu vì các sản phẩm trà xuất khẩu bị trả lại do tồn dư thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), gây mất uy tín đối với các sản phẩm trà, làm giảm niềm tin của thị trường quốc tế. Nhiều lô hàng chè bị trả lại do các doanh nghiệp không có vùng nguyên liệu ổn định, mua sản phẩm trà xanh trôi nổi từ tiểu thương và người dân. Vấn đề đặt ra là người làm chè, trong đó có số ít người làm chè Thái Nguyên hãy còn phun thuốc lung tung, không đúng chủng loại, liều lượng, thời gian cách ly nên việc tồn dư thuốc BVTV trên chè là khó tránh khỏi.
Cục trưởng Cục bảo vệ thực vật cũng khẳng định rằng, không khuyến khích kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật. Do đó, càng hạn chế sử dụng thuốc BVTV trên cây chè có độ độc cao càng tốt, trước chính là để bảo vệ môi trường và sức khỏe giống nòi cho dân tộc, sau là tạo tiền đề để nông sản Việt Nam có đủ điều kiện ATVSTP xuất khẩu sang những thị trường khó tính nhưng giá bán cao…. Việt Nam hội nhập sâu rộng vào thế giới qua TPP, nếu như không hạn chế thuốc bảo vệ thực vật, làm sao xuất khẩu sang các thị trường này được.
-
Hạn chế sử dụng thuốc BVTV trên cây chè như thế nào
Để Hạn chế sử dụng thuốc BVTV trên cây chè, cơ quan quản lí cần siết chặt và rút gọn lại danh mục các hoạt chất thuốc BVTV trên chè hiện nay. Cần có các nghiên cứu khoa học để đưa ra được danh mục tối ưu nhất, chỉ khoảng 15 – 20 hoạt chất. Lưu ý loại bỏ những hoạt chất có ảnh hưởng cực xấu đến sức khỏe con người nếu bị phơi nhiễm. Đồng thời, loại bỏ hẳn khỏi danh mục những hoạt chất mà những nước nhập khẩu chè Thái Nguyên, chè Việt Nam đang sử dụng làm hàng rào kỹ thuật. Có như vậy giá chè Thái Nguyên xuất khẩu mới lên cao, người dân mới có thu nhập, lại bán được chè ổn định.
Bên cạnh đó, thuốc BVTV được coi là một trong những vũ khí “giết người hàng loạt”, do đó cần cấm người dân tự ý sử dụng thuốc BVTV chứ không chỉ Hạn chế sử dụng thuốc BVTV trên cây chè. Hạn chế phun thuốc BVTV theo ranh giới hộ gia đình như tại Việt Nam mà nên những bệnh viên cây trồng, thành lập những HTX và tổ hợp tác chuyên phun thuốc BVTV theo vùng sinh thái. Xét tới đạo đức kinh doanh trong thế giới phẳng như hiện nay, chúng ta không thể sản xuất ra những thứ độc hại rồi bán cho người dân nước khác dùng. Làm chè phải có tâm, thế nên cần tuyên truyền để người dân hạn chế sử dụng thuốc BVTV trên cây chè Thái Nguyên, đặc biệt là thuốc cấm, không rõ nguồn gốc.