1. Đến với Đồng Hỷ,Thái Nguyên được thăm cách thức sản xuất của các Làng nghề chè truyền thống Sông Cầu mà thấy tin tưởng các sản phẩm trà xanh Thái Nguyên hơn.
Chúng tôi tìm đến xứ chè Sông Cầu Thái nguyên vào buổi chiều, đi trên những con đường, thấy từ các nóc nhà khói lò sao chè thi nhau nhả khói, tiếng máy sao cùng máy vò chạy xao động một vùng, bên những đồi chè, trẻ con sau giờ học tranh thủ giúp gia đình hái chè đã chuẩn bị ra về với đầy những thúng, tải những búp chè tươi non. Ấy là khung cảnh tại Làng nghề chè truyền thống Sông Cầu xóm 5. Có thể nói rằng, tiến bộ KHKT được áp dụng và đẩy mạnh chuyển đổi từ giống chè thái nguyên trung du sang trồng các giống chè cành có năng suất và chất lượng cao như Bát Tiên, Kim Tuyên, Chè Nhật, Phúc Vân Tiên, Nhất phẩm… đã góp phần tạo nên sức sống mới của làng nghề chè truyền thống bên bờ sông Cầu thân thương này.
Nhắc đến lịch sử cây chè và lịch sử Làng nghề chè truyền thống Sông Cầu, người ta thường hắc đến nông trường chè Sông Cầu, ra đời và phát triển từ những năm 60 của thế kỷ trước. Thời đó, người dân thường trồng chè trung du bán cho nông trường, chế biến xuất khẩu. Nay, nhìn những đồi chè bát úp xanh mơn mởn, trải dài mênh mông, bao quanh những ngôi nhà cao tầng mọc lên san sát. Đó là kết quả của quá trình học hỏi kinh nghiệm làm chè của các vùng chè Tân Cương, chè Phổ Yên và các vùng chè Thái Nguyên khác. Thế là, bí quyết là ở chỗ không làm chè cho các công ty xuất khẩu giá bèo bọt nữa, mà tập trung làm chè đặc sản chất lượng cao, phục vụ nhu cầu của chính người Việt. Thế là, các giống chè cành đặc sản như: Chè Nhật, Bát Tiên, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên, Hùng Đỉnh Bạch, LDP1…đã bắt đầu bén rễ ở đôi bờ Sông Cầu quanh năm nước mát. Chẳng hạn, giá bán chè Nhật bình quân khoảng 250 nghìn đồng/kg; chè LDP1 khoảng 200 nghìn đồng/kg, rất cao.
Tổng diện tích chè của Làng nghề chè truyền thống Sông Cầu xóm 5 là 85ha, trong đó, có 75ha chè cành. Mỗi năm, làng nghề cung ứng ra thị trường hàng trăm tấn chè khô các loại. Nhờ cây chè, đa số các hộ trồng chè ở đây đã vươn lên thoát nghèo, sắm sửa đồ đạc, xây dựng nhà khang trang, nuôi con ăn học đàng hoàng. Thu nhập bình quân đạt 35 triệu đồng/người/năm, 1/3 số hộ thuộc diện khá giả. Làng nghề luôn tham gia tích cực vào Lễ hội văn hóa trà Thái Nguyên; Ban quản trị làng nghề cũng thường xuyên đem các sản phẩm của làng nghề đi giới thiệu tại các Hội chợ thương mại,…
2. Chia tay làng chè xóm 5, chúng tôi đến với Làng nghề chè truyền thống Sông Cầu xóm 9 với các sản phẩm trà Thái Nguyên ngon.
Điều đặc biệt của xóm là có các cụ nắm được kinh nghiệm sản xuất chè truyền thống, sẵn sang truyền cho con cháu và nhân dân trong xóm làng như cụ bà Lê Thị Tâm, cụ ông Nguyễn Văn Tơ, cụ bà Trần Thị Liên Hiện nay, đồi chè xanh bát ngát, hòa vang tiếng ca điệu hát của 114 hộ dân làng chè ngày đêm chăm chỉ miệt mài chăm sóc trồng chế biến chè cho ra hàng chục tấn chè sản phẩm bay tới muôn phương, phục vụ du khách khắp nơi. Có thể nói, chén trà và cây chè đã đi vào lời ăn tiếng nói, ăn sâu bám rễ vào trong tâm thức người dân, chè là máu là thịt là cuộc sống của muôn nhà, muôn nhà tâm niệm cùng nhau quyết tâm giữ gìn sản phẩm chè truyền thống của xóm làng.
Tiếp xúc với người dân Làng nghề chè truyền thống Sông Cầu xóm 9, chúng tôi hiểu ra một điều rằng, người trồng chè Thái Nguyên đã nhận ra chỉ có trồng và chế biến chè thành chè đặc sản giá trị kinh tế thu nhập mới cao, mới xóa đói giảm nghèo. Các thế hệ người dân sông Cầu được học tập cách trồng chăm sóc và chế biến chè sạch với các lớp ViệtGAP được mở ra cho người làm chè và nhân dân học tập. Chứng kiến bà con làm chè, thấy rõ việc cơ giới hóa dần thay thế từ chảo gang, tôn phẳng, sao bằng tay xưa kia nay là tôn quay sao chè, máy mô tơ điện vò chè đã tiết kiệm nhân lực, giảm công lao động cho hiệu quả sản xuất giá trị sản phẩm cao, khách hàng gần xa tin tưởng dùng sản phẩm tra thai nguyen, thu nhập của người sông Cầu làm chè ngày một cao, góp phần xây dựng nông thôn mới.